Thay thế cho Chúa “Đ*t” đã trở thành từ quan trọng nhất trong ngôn ngữ của chúng ta Ngay cả khi Friedrich Nietzsche sống dậy, thì ổng cũng bất ngờ thôi và ổng sẽ cố hồi sinh
Chúa, từ cõi chết trở về, bằng cách nào đó vì cái sự ngu xuẩn này…
Thực hiện bởi: Spiritually Incorrect ®
Dịch bởi Team: Vũ Ngọc Thọ vungoctho.com/of
Trích đoạn được chọn từ bài nói của OSHO:” Cuộc đại hành hương: Từ đây tới đây, thứ 23
Bản quyền © năm 1984, 2006 của tổ chức quốc tế OSHO, Thụy Điển. OSHOTM là 1 nhãn hiệu được đăng ký bản quyền
Khi Friedrich Nietzsche (*) tuyên bố “Chúa đã chết”, “Địt đã trở thành từ quan trọng nhất trong Tiếng Anh
(*) Friedrich Wilhelm Nietzsche là một nhà triết học người Phổ (người Đức). Ông bắt đầu sự nghiệp như là một nhà ngữ văn học và viết nhiều bài phê bình về tôn giáo, đạo đức, các vấn đề văn hóa đương thời, và triết học.
Vấn đề là nếu Chúa chết
điều này làm mất đi một từ quan trọng nhất trong ngôn ngữ của bạn.
Bạn sẽ cần 1 từ thay thế.
Và Chúa là 1 hồi kết
là tận cùng
và khi 1 điều tận cùng biến mất khỏi tầm nhìn tâm linh của bạn
điều cần thiết và không thể tránh khỏi là
bạn sẽ rơi vào 1 điều tận cùng khác.
Và đó là điều đã xảy ra, thưa Đấng Milarepa (*)
(*) Mật-lặc Nhật-ba ( Milarepa ), 1052-1135, có nghĩa là “Mật-lặc, người mặc áo vải khổ hạnh”, là một trong những thánh nhân nổi tiếng nhất của Tây Tạng. Ông là đệ tử của Mã-nhĩ-ba.
Thay thế cho Chúa “Đ*t” đã trở thành từ quan trọng nhất trong ngôn ngữ của chúng ta Ngay cả khi Friedrich Nietzsche sống dậy, thì ổng cũng bất ngờ thôi và ổng sẽ cố hồi sinh
Chúa, từ cõi chết trở về, bằng cách nào đó vì cái sự ngu xuẩn này…
Nhưng… bạn sẽ cần cả 1 bài báo cáo về nó
CẢ 1 BÀI BÁO CÁO.
Một trong những từ thú vị nhất
trong ngôn ngữ Tiếng Anh ngày nay
đó là từ “địt”
Đó là 1 từ kỳ diệu
chỉ với âm điệu của nó, nó có thể diễn tả
nỗi đau, niềm vui, hận thù… và tình yêu.
Trong ngôn ngữ, nó rơi vào nhiều phạm trù văn phạm.
Nó có thể dùng làm động từ
Cả ngoại động từ, … “John chịch Mary”
lẫn nội động từ
“Mary bị thằng John nó chịch”
và kể cả là 1 danh từ,
“Mary là 1 chịch thủ tuyệt cmn vời”.
Nó có thể dùng làm tính từ,
ĐM, con Mary đẹp vãi nồi
Như bạn có thể thấy
không có nhiều từ
có được sự linh hoạt như từ “địt”.
Bên cạnh ý nghĩa tình dục
cũng có những cách dùng sau đây:
Lờ mờ: ĐM giá mà bố mày biết
Gặp rắc rối – “Thôi xong bị địt rồi”
Bị lừa – “Tao bị bị quả địt ở bãi mua bán xe cũ”
Sự giận dữ – “Đụyt mẹ mày”
Không hài lòng – “ĐM cái l*n gì đang xảy ra ở đây vậy”
Khó khăn – “Tao không thể hiểu cái nghề củ địt này”
Bất tài – “ĐCM cái thằng củ l*n đấy”
Nghi ngờ – “ĐM Mày đang làm cái l*n gì vậy”
Sự vui vẻ – “ĐM Tao có 1 khoảnh khắc vui vãi l*n”
Yêu cầu – “ĐCM Cút đi đồ hãm l*n”
Sự thù hằn – “ĐCM, Tao sẽ đập vỡ cái đầu củ l*n của mày”
Chào hỏi – “ĐM, Dạo này khỏe không thằng l*n”
Sự thờ ơ – “làm địt gì có thằng l*n nào quan tâm”
Sáng kiến – “Đm, Tìm cho ra cái búa to vãi cả l*n đi chứ”
Bất ngờ – “Đệt mợ, mày làm tao sợ vãi cứt”
Khắc khoải, lo âu – “ĐM, Hôm nay là cái ngày l*n gì thế nhỉ”
… Và nó cũng rất có lợi cho sức khỏe.
nếu sáng nào bạn cũng làm nó như 1 liệu pháp thiền siêu việt.
Ngay khi bạn thức dậy,
việc đầu tiên hãy làm là lặp lại câu thần chú:
ĐM, 5 lần.
nó cũng làm thanh giọng của bạn.
((= =))
Dịch bởi Vũ Ngọc Thọ & Bùi Lê Minh Thái
___________
Osho (1931-1990) là một vị đạo sư hết sức kỳ lạ của thế kỷ hai mươi.
Tên thật của ông là Rajneesh Chandra Mohan Jain. Khoảng trong thập kỷ 70 người ta biết đến ông với tên Bhagwan Shree Rajneesh. Tháng 2 năm 1989, ông tự đổi tên là Osho. Osho vốn là danh xưng tiếng Nhật Bản cổ, có nghĩa là “đạo sư” của một dòng Thiền. Tác phẩm bạn đọc đang cầm trên tay, Cuộc đời của luận sư Rajneesh Chandra, kể lại cuộc đời lạ lùng và quan niệm của ông về nhiều vấn đề, thế tục cũng như tâm linh.
Osho để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ với hàng trăm cuốn sách và vô số các bài thuyết giảng. Ông là một người gây nên rất nhiều tranh cãi trong số những ai quan tâm đến triết học phương Đông, trong giới những người tầm cầu tôn giáo và đạo sư. Có thể nói, ông là một trong những người gây phân hoá cùng cực nhất về mặt đạo lý, nhưng cũng là người có sức thu hút mạnh mẽ nhất trong các bài giảng về tôn giáo và triết học. Nhưng có lẽ điều này nằm trong ý đồ đích thực của một con người “nổi loạn” như ông.
Nhân cách của Osho có một sức thu hút mãnh liệt, nó biểu hiện trong những bài luận giải xuất chúng của ông về mọi vấn đề tôn giáo và triết học, kể cả về các bộ kinh lâu đời nhất mà nhiều vị luận sư đã dày công trình bày. Những ai đã gặp ông đều thừa nhận Osho có một tài hùng biện đầy ma lực, một sự hấp dẫn cá nhân mà người nghe hầu như không thể cưỡng lại. Song song với những công trình luận giải vĩ đại đó thì tập thể quần chúng và đệ tử do ông hướng dẫn lại gây nên rất nhiều tai tiếng, thậm chí có kẻ trở thành tội phạm.
Sự thật về con người Osho nằm ở đâu? Thiết nghĩ khó có ai trả lời được và điều này có thể cũng lại nằm trong chủ đích của chính ông. Chính ông cũng nói về triết học của mình là một thứ triết học phi triết học (philosophy of no philosophy). Tuy thế, một khi độc giả đã cầm quyển sách này trong tay, một lời dẫn nhập ngắn nhằm giới thiệu con người và quan niệm của Osho có lẽ sẽ giúp độc giả hiểu được một phần con người kỳ dị này của thế kỷ trước. Đó là mục đích của bài này.
Trước hết, trong những năm 60, Osho là giáo sư triết học tại đại học Jabalpur, Ấn Độ. Về bản thể luận, ông là người có một quan niệm Nhất thể (Monism) về vũ trụ. Đối với ông, Thượng đế nằm trong mọi vật, nằm trong mọi con người. Không hề có sự phân biệt nào giữa “Thượng đế” và “phi Thượng đế”. Toàn thể mọi con người, dù là người tồi tệ nhất, đều thiêng liêng cả. Mọi dạng xuất hiện của một thứ năng lượng mang tên là “Thượng đế” đối với ông đều đáng ngưỡng mộ và điều này sẽ thể hiện trong quan niệm hành trì mà ông muốn truyền bá.
Đối với đời người, Osho cho rằng giá trị cao cả nhất của cuộc đời là lòng yêu thương, sự vui cười và thiền định. Niềm ân thưởng vô giá nhất của cuộc đời là trải nghiệm được sự giác ngộ tâm linh (spiritual enlightenment). Sự giác ngộ đó được ông miêu tả là “nằm yên trong trạng thái bình thường của sự hiện hữu của tất cả mọi vật đang dựng xây vũ trụ”. Con người chúng ta lẽ ra ai cũng có thể trải nghiệm được trạng thái giác ngộ đó, nhưng sự thực là con người bị đánh lạc hướng do hoạt động tư duy cũng như do mong ước và dục vọng sinh ra bởi sự ràng buộc của xã hội. Vì thế, thay vì hưởng được niềm vui cao cả của sự hữu hiện, con người rơi vào một tình trạng của sợ hãi và ức chế. Ông quan niệm rằng, muốn trở lại trạng thái hồn nhiên và an lạc, con người phải tự mình giải thoát khỏi sợ hãi và ức chế.
Với nhận thức này, Osho hoàn toàn nằm trọn vẹn trong truyền thống của triết học Ấn Độ, nhất là trong Đại thừa Phật giáo. Nếu nhớ đến tư tưởng của Mã Minh trong Đại thừa khởi tín luận, hay Thiền ngữ “Tâm bình thường là đạo” của Nam Tuyền, hay các phép hành trì của Phật giáo Tây Tạng, hay tư tưởng của các vị đạo sư của thời hiện đại như Aurobindo hoặc Krishnamurti, ta dễ dàng thấy sự trùng hợp tuyệt đối về nhận thức luận giữa ông và các truyền thống đó. Chỉ có điều khác biệt là, Osho nói về các nhận thức này một cách hùng biện và mới mẻ. Nhất là với tính cách của một giáo sư triết học, trong các luận giải, ông phối hợp một cách tài tình những truyền thống của Phật giáo, Kỳ-na giáo (Jainism), Ấn Độ giáo, Lão giáo, Cơ-đốc giáo, Sufism (một truyền thống của Hồi giáo), và triết học cổ của Hy Lạp. Thế nhưng, cũng như mọi nhà đạo học khác, ông không quên chỉ rõ, không một nền triết học nào có thể diễn bày được chân lý, có thể thay thế được sự chứng thực cá nhân.
Do đó sự trải nghiệm, sự chứng thực của trạng thái giác ngộ là cốt tuỷ của mọi sự. Ông tự nhận mình đã đạt trạng thái này năm 21 tuổi. Phương pháp khả dĩ đưa đến giác ngộ là phép thiền định. Nhưng thiền định là gì và hành trì thiền định như thế nào? Theo Osho thiền định là một trạng thái “nằm ngoài tâm”. Thiền định không phải là sự tập trung. Thiền định không hề là một dạng của sự tư duy có tính tâm linh mà là một tình trạng vắng bặt tư duy. Mọi triết lý về thiền định có thể ví như to tiếng bàn luận về sự lặng yên, còn thiền định là bản thân sự lặng yên. Đó là một tình trạng có thể xảy ra bất chợt, một tình trạng mà ta có thể ở trong đó, chứ không phải là một sản phẩm do ta tạo ra. Quan niệm này về thiền của Osho không hề khác với các phát biểu xưa nay của các vị Thiền sư của miền Đông Á, trong đó có Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Nhưng cách hành trì thiền định do Osho đề ra thì khác hẳn.
Osho cho rằng con người hiện đại, nhất là người phương Tây rất khó áp dụng phép toạ thiền, tìm sự an tĩnh và ngưng bặt tư tưởng bằng cách ngồi yên. Vì thế ông đề xuất những phép thiền tích cực (Active Meditation) và cho rằng những phép hành trì của thiền tích cực sẽ đưa con người vào trạng thái thiền định một cách tự nhiên. Nội dung của các phép thiền tích cực này là cho phép con người rũ bỏ những gì ức chế mình bằng cách để cho chúng được thể hiện một cách tự nhiên. Trong các phép thiền tích cực do Osho đề ra, ta có thể kể phép thiền năng động (Dynamic Meditation), thiền Kundalini, Nadabrahma, Natajai, trong đó phép thiền năng động được chú ý nhiều nhất. Trong phép thiền năng động, thường thường thiền sinh bắt đầu với những hoạt động mạnh mẽ về thể chất, sau đó là sự lặng yên và cử hành tế lễ. Phép thiền này tin rằng, qua đó con người sẽ vượt thắng sự sợ hãi, giảm bỏ sự ức chế, phát sinh được một dạng của Không tính (state of emptiness) và đạt giác ngộ. Đối với Osho, muốn đối trị sự ức chế nào ta phải kích động nó lên, nếm trải, chứng nghiệm nó và cuối cùng trực nhận nó chỉ là “không” thì mới thực sự siêu việt được nó. Theo ông một con người giác ngộ sẽ là “phi quá khứ, phi tương lai, không ràng buộc, không tâm thức, vô ngã, vô bản chất”.
Đó là những nét cơ bản về quan niệm của Osho về phép hành thiền. Thật ra thì phương pháp chủ động kích thích dục vọng của con người lên để chứng nghiệm, quán chiếu và siêu việt chúng không phải là một điều gì mới lạ. Trong truyền thống Ấn Độ, người ta vẫn còn nhắc đến 84 vị Đại Thành tựu giả (Mahasiddha), các vị được xem là sống trong khoảng thế kỷ thứ 8 đến thứ 12 sau công nguyên [1] . Đó là các vị hành giả lòng còn chất chứa đầy các loại dục vọng khác nhau, nhưng nhờ biết cách quán chiếu chúng, biết chúng chẳng qua đều là những dạng của Không tính mà đạt được thành tựu. Đọc tiểu sử các vị đó, ta sẽ thấy đó toàn là những người mang đầy thói hư tật xấu, thậm chí có kẻ là người chuyên đánh bạc hay ăn trộm, nhất là có rất nhiều vị đam mê tình dục. Thế nhưng, nhờ một cách hành trì thiền định, trong đó họ quán tưởng “đối tượng đam mê” và “người đam mê” đều chỉ là những dạng của “Không”, họ đạt giác ngộ ngay trong đời này. Các vị đó là những người tiên phong của một truyền thống được mệnh danh là Kim cương thừa. Trong thời đại gần đây hơn, các vị tu sĩ trong truyền thống Kim cương thừa của Tây Tạng cũng là những người chủ trương “chuyển hoá” năng lực của dục vọng thành động lực của sự giác ngộ. Thậm chí trong nền phân tâm học hiện đại của phương Tây người ta cũng biết đến phép chữa bệnh Gestalt Therapy, trong đó bệnh nhân được khuyến khích hãy sống thực với nền tảng tâm lý của mình, hãy tận lực khóc cười hay la hét với những ức chế của mình với mục đích giải thoát ra khỏi sự đè nén của chúng.
Dĩ nhiên phương pháp của Osho có một tầm cỡ hoàn toàn khác so với phép chữa bệnh tâm lý nói trên, vì ở đây nó có tính chất tôn giáo cao độ. Còn so với các truyền thống xưa thì điều kỳ lạ là ông dám đem ra áp dụng cho quảng đại quần chúng. Ở đây ta dễ dàng đoán biết điều gì sẽ xảy ra. Đó là khi con người bình thường được khuyến khích chủ động cho những ức chế của mình được vận hành thì một năng lực thuộc về bản năng sẽ vùng dậy, đó là tình dục.
Osho vốn là một con người “nổi loạn”, luôn luôn chống lại qui tắc của xã hội. Không những ông không hề sợ bị xã hội lên án, xưa nay ông chuyên khiêu khích sự ổn định của một định chế có sẵn, kể cả một nền đạo lý chung của con người. Nhất quán với quan niệm thiền định tích cực của mình, khoảng cuối những năm 60, ông bắt đầu thuyết giảng một số bài về tình dục, được ghi lại dưới nhan đề Từ tình dục đến ý thức siêu việt (From Sex to Superconsciouness), trong đó ông cho rằng “đối với phép Tantra thì mọi thứ đều thiêng liêng, không có gì không thiêng liêng” và mọi sự đè nén tình dục đều là sự tự huỷ vì người ta không thể chuyển hoá tình dục nếu không nếm trải nó “một cách đích thực và đầy ý thức”. Quả thực, trong phong trào của ông, môn đệ của ông thực hành lời dạy này một cách đầy hoan lạc. Liệu hành động của họ là “đích thực và đầy ý thức” như ông giảng giải, là một vấn đề khác. Thật ra phần nói về tình dục chỉ là phần nhỏ trong cuộc đời thuyết giảng của ông nhưng kể từ đó người ta gọi ông là “đạo sư tình dục” (sex-guru) và gọi chủ trương của ông là “tự do tình dục”.
Trên quan niệm đạo học phương Đông, tình dục là một dạng vận hành của năng lượng. Năng lượng hàm chứa trong con người biểu hiện dưới nhiều dạng của ái dục mà dạng ái dục quan trọng nhất là hữu ái (bhavatrsna), tức là sự khao khát được tồn tại. Trong sự khao khát đó thì tình dục là dạng ái dục cụ thể nhất, mang nặng tính vật chất nhất. Tình dục do đó là bản năng cơ bản nhất của mọi loài, nó không dính líu gì đến các giá trị do xã hội loài người đặt ra như thiện-ác, xấu-tốt, phải-trái. Sở dĩ tình dục hay bị lên án là vì mọi hoạt động xuất phát từ nó thường sinh ra những hậu quả phiền toái cho đời sống xã hội của con người. Cũng chính vì thế mà con người thường bị ức chế về tình dục, tuy luôn luôn nhớ nghĩ về nó nhưng cũng luôn luôn phải đè nén nó. Do đó tình dục là một trong những ức chế lớn nhất của con người, thật ra là ức chế chủ yếu của đời làm người. Nền tâm lý học phương Tây cũng đã có những phát hiện tương tự.
Vì vậy khi Osho chủ trương con đường giải thoát là phải đối diện, nếm trải mọi năng lực bị ức chế để có thể siêu việt và chuyển hoá chúng, thật ra ông không thể không nói đến tình dục, nếu ông thật sự nhất quán với chính mình. Và thực ra mỗi kẻ tầm đạo, một khi đã đi vào con đường tích cực và chuyển hoá, cũng phải tìm cho mình một phương thức riêng để chuyển hoá năng lực của tình dục. Đó là một con đường chứa nhiều hiểm nguy. Nhưng muốn “chuyển hoá” thì đó là con đường không thể tránh né, cũng như hoa sen không thể toả hương thơm nếu không bám chặt vào bùn đất để rút tỉa tinh hoa của năng lực nằm trong bóng tối. Và đó chính là con đường Kim cương thừa mà từ thế kỷ thứ 8, con người đã thực hành để đạt đến sự thành tựu.
Osho chỉ là người muốn thực hiện rộng rãi Kim cương thừa trong thế kỷ 20 tại phương Tây, nhưng có lẽ ông đã phạm một sai lầm. Đó là Kim cương thừa chỉ dành cho những bậc thượng căn, không phải cho quần chúng. Nếu Osho nghe những lời này, hẳn ông sẽ nói “tất cả là thượng căn” vì ông quan niệm ai cũng là Thượng đế cả, không có gì là không thiêng liêng.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên về câu trả lời của một người được mệnh danh là “nổi loạn” như ông, nhưng những gì ông hứng chịu trong cuối đời do chính đệ tử của ông gây ra cho thấy nhiều học trò của ông xem ra không hề “thiêng liêng” gì cả. Phần lớn môn đệ của ông tìm đến vì tò mò, không ít người phản bội ông, làm giàu trên lòng tin ngây thơ của người khác. Trong quá khứ người ta cũng chỉ biết vỏn vẹn có 84 vị Thành tựu giả trong số hàng triệu người tu học tại Ấn Độ thì tại sao ngày nay lại có thể khác. Hơn thế nữa, con người của thời đại này lại càng vô cùng khó khăn hơn nữa khi muốn chuyển hoá một năng lực gắn liền với thân vật chất để thăng hoa, tiến gần với cái thiêng liêng. Thời đại này là kỷ nguyên của chủ nghĩa duy vật, những người tưởng như muốn tìm đến cái thiêng liêng thực chất cũng là môn đệ của chủ nghĩa duy vật tâm linh (spiritual materialism) như Chogyam Trungpa đã nói. Thời nào cũng thế, con người chỉ thấy những gì họ muốn thấy, chỉ tìm những gì họ khao khát. Vì thế khi ông đã lỡ nổi danh là một “sex-guru”, ta có thể đoán biết thành phần và mục đích của những người hướng về ông. Quả thực sau khi ông mất, không có ai đủ sức trình bày một bài thuyết giảng cho xứng đáng là người đã từng theo học với ông.
Ông mất đi trong sự tan rã của phong trào theo học giáo phái Osho, nhưng có lẽ một con người như ông không có gì để tiếc nuối vì như ông nói, ông “chỉ là một đám mây”, đến chơi với trần thế trong một thời gian ngắn ngủi. Thế nhưng, hơn 15 năm sau ngày ông mất, người ta vẫn tìm đọc Osho vì trong sách báo của ông để lại, quả thực có một điều gì có giá trị nội tại, quả thật đây là những lời nói của một con người phi thường. Nhưng mặt khác, người ta cũng thấy phương pháp thiền định của ông không phải dành cho tất cả mọi người. Nếu xét Kim cương thừa và những vị tu sĩ cao cấp đã tu luyện theo phép này, người ta phát hiện lại một câu nói giản đơn của một người hẳn đã biết mức độ chọn lọc đối với người hành giả có thể theo học phép tu này. “Chỉ những ai đã xả bỏ tâm phân biệt, những ai mà đối với họ một đĩa thực phẩm sang trọng và một đĩa phân là như nhau, thì kẻ đó mới được theo học Kim cương thừa”. Đó là lời của Đạt-lai Lạt-ma thứ V (1617-1682). Các đệ tử của Osho không hề là những người như thế. Một số đến với ông vì tính cách nổi loạn như ông nhưng một cái khác thì họ không có, một số khác vì tò mò, vì thất bại, vì ưu phiền cá nhân. Dĩ nhiên, nếu thảng có ai trong số đó đã đạt giác ngộ như ông thì điều đó chúng ta không bao giờ biết.
Chỉ Osho mới biết mình thành công hay thất bại, nhưng ông lại không màng đến nó. Ông chỉ thấy phải nói phải làm những cái đáng nói đáng làm. Nếu đọc cuốn sách này, ta sẽ biết tính khí của ông và đoán có thể tất cả đều nằm trong chủ đích của ông. Có thể ông đã thấy rõ đời mình phải làm ầm ĩ lên như một người điên thì mọi người mới chịu chú ý nghe những gì mình nói, nếu không tất cả sẽ chìm trong quên lãng trong một thế giới quá nhiều thông tin. Và tác phẩm đang nằm trong tay bạn đọc có lẽ đang chứng minh điều đó.
[1]Xem Keith Dowman, Master of Mahamudra, Songs and histories of Eightyfour buddhist Siddhas, NY 1985.30 nguyên tắc vàng đối nhân xử thế – Đắc nhân tâm – Dale Carnegie
Năm 2004 tôi rời quê lên Hà Nội học, với một tư duy thuần nông và được nhà trường, cha mẹ, báo đài định hướng tôi chọn cho mình nghề CƠ KHÍ vì lúc đó tôi thích làm thợ và mong chờ sự ổn định.
Trong suốt quãng thời gian ở Hà nội học tập đó tôi lại tiếp tục học cùng và giao lưu với những người bạn có chung những tư tưởng về LÀM CÔNG ĂN LƯƠNG. Học trường công nghiệp ngành sửa chữa máy, chơi với những người bạn cùng học, môi trường đó tiếp tục đưa tôi đi trên con đường mà bạn biết rồi đấy, Học xong kiếm một công việc để làm, chẳng có định hướng gì đến việc phải tiến xa hơn, làm những việc mà bản thân muốn làm. Thay vào làm những việc mà bản thân mình muốn (hoặc nên) làm thì ta lại đi theo định hướng của người khác vạch ra.
Đầu năm 2014 mười năm sau khi đi trên con đường mà tưởng như ỔN ĐỊNH tôi thực sự rơi vào stress, suốt 2 tuần sáng đi làm, tối về lăn ra ngủ hôm sau lại tương tự như vậy, tôi loay hoay và tự hỏi “Sống như này có phải là sống?” Nếu chỉ sáng đi làm tối lại về nghỉ và mệt nhoài đó có phải là cuộc sống mà chúng ta sinh ra để làm như vậy?
“Khi bạn hỏi sẽ có câu trả lời” “Khi bạn tìm thì sẽ thấy” tôi đã tìm ra nhiều thứ nhưng tôi nghĩ rằng đây là thứ giá trị, rất giá trị tôi cần phải biết để có một cuộc đời đáng sống. Trong hình bạn thấy là KIM TỨ ĐỒ của Robert Kiyosaki (tác giả của rất nhiều tựa sách bán chạy trên thế giới) Ông chia ra trong xã hội của chúng ta có 4 nhóm người:
Sắp xếp theo thứ tự cấp bậc thì số 1 chiếm đa phần dân số, số 4 chiếm khoảng 5% dân số thế giới và nhóm người số 1 sở hữu khoảng 5% của cải vật chất trong xã hội. Đa phần bạn cũ của tôi an phận với vị trí số 1 (nhưng rất ít người trong số họ hài lòng với nó) Đa phần trong số họ sẽ ghét người giàu, mỗi lần gặp nhau những câu chuyện rất có thể là nói xấu sếp hoặc than nghèo kể khổ. Rất ít những câu chuyện nói về việc làm thế nào và phải làm gì để mình thoát khỏi tình trạng đó. “Ghét của nào trời trao của đó” là một mơ ước, thật buồn cười
“Sống trong đống cứt đủ lâu người ta sẽ không còn thấy nó thối nữa” là một câu nói tôi nghe được mà thấy nó rất thấm vào mình. Câu hỏi đặt ra là “Tôi nằm trong đống cứt nào đâu?” có thể không phải đống cứt nhưng cứ ở mãi một vị trí mà mình không thích thậm chí là chán ngấy nó thì cũng chẳng khác nào nằm im trong đống cứt cả. Hãy tìm cách để chui ra khỏi đó
Chuyển hóa là không dễ dàng, để thay đổi thì phải trải qua cả quá trình rất có thể phải trả giá bằng đau đớn, mồ hôi, nước mắt và cả sự cô đơn nữa. Môi trường mạnh hơn tư duy bạn buộc phải thay đổi môi trường sống cũng như môi trường làm việc. Bạn không thể nào ngoi ra khỏi đống cứt nếu cứ bơi mãi trong một cái hầm cầu (ở quê gọi là hố phân)
Cuối cùng thì chúng ta cũng chỉ có 1 cuộc đời để sống, hãy sống theo cách mà bạn mong muốn chứ không phải cách mà người khách muốn bạn sống. Đơn giản vậy thôi
Kim tứ đồ
___________________________
Để hiểu rõ hơn tại sao Kim Tứ Đồ nổi tiếng đến vậy, chúng ta cùng điểm qua 4 khái niệm về cách làm ra tiền của nó nhé. Bao gồm: Employee, Self Employed, Business, Investor
1. #Employee (Người làm công ăn lương)
Phương pháp này là bạn đi làm thuê cho người khác, xin việc tại các công ty hay nhà máy, công nhân viên chức. Hình thức này không tạo ra được nhiều tiền, bạn làm kỹ sư, giáo viên hay bác sĩ cao lắm thì cũng chỉ đến mức mà công ty hoặc nhà nước trả cho bạn chứ không thể trả hơn được nữa. Với cách này, nếu như muốn trở thành triệu phú $ thì quá là xa vời luôn, gần như khó mà thực hiện được trừ khi bạn là giám đốc hoặc chủ của cửa hàng đó.
2. #Self_Employed (Tự kinh doanh)
Vấn đề thứ 2 là bạn tự kinh doanh. Ví dụ bạn là bác sĩ nha khoa hay là chủ cửa hàng nail (làm móng) chẳng hạn. Nếu bạn cứ phải có mặt ở đó để làm việc mới tạo ra tiền được thì người ta gọi đấy là self employed, như bạn mình hiện tại đang tự kinh doanh mỹ phẩm Ohui Hàn Quốc có khách cần là đều phải tự đứng ra tư vấn hết mà nhiều khách toàn nửa đêm mới inbox. Kiếm được tiền cũng trầy da tróc vẩy lắm . Theo mình thấy thì cái tự kinh doanh này là cái hại nhất trong 4 phương pháp để tạo ra tiền này. Mình không bao giờ thích làm cái này tại vì khi mình làm cái này sẽ gặp rất nhiều trở ngại. Nhưng ngược lại mình cũng rất nể các bạn tự kinh doanh hơn những người sáng xách cặp đi chiều xách cặp về, đến tháng lĩnh tiền. Công ty có làm ăn được hay không thì cũng kệ mẹ nó, nó mà tèo thì đi tìm việc khác.
Người nghèo (Poor) chỉ nghĩ tới hai hình thức này là đi làm thuê cho người ta hoặc tự đi làm cho mình.
3. #Business_Owner (Chủ doanh nghiệp)
Hình thức này là người ta tạo ra công ăn việc làm, công ty, nhà máy để tạo ra tiền cho họ. Ví dụ Tập đoàn Microsoft của Bill Gates, các bạn có thể thấy đã từ lâu ông ấy không còn tham gia trực tiếp vào công ty mà chỉ toàn thấy ông đi khắp thế giới để làm từ thiện và thuyết giảng ở các trường Đại học lớn. Nhưng công ty của ông ấy vẫn tạo ra tiền trong lúc ông ấy không có mặt ở đấy, tại vì lúc xây dựng công ty ông ấy đã tạo ra cả một hệ thống để kiếm tiền. Dù ông ấy không có ở đấy thì nó vẫn còn tạo ra tiền được. Đó là điểm khác nhau giữa Business Owner và Self Employed.
4. #Investor (Nhà đầu tư)
Đây là mức làm ăn cao hơn cả Business, tại vì sao? Tại vì họ không mở công ty, nhà máy mà họ sẽ lấy số tiền họ có để tạo ra tiền, khiến mỗi một đô la họ có tạo ra thêm nhiều tiền nữa. Ví dụ đơn giản bạn có 1 triệu $ Mỹ bạn không cần làm gì mà chỉ đem gửi ngân hàng với lãi suất 5.7% 1 năm, vậy 1 tháng bạn có khoảng 100 triệu tiền lãi. Nếu mức sống của bạn chỉ hết có 2/3 chỗ lãi đó thì bạn có thể gửi tiếp vào ngân hàng và cứ năm này qua năm khác bạn không phải chỉ nhận riêng tiền lãi của 1 triệu $ nữa mà là lãi mẹ đẻ lãi con. Không thể tin được, thật là tuyệt vời.
Kết luận
Những người ở phía bên tay phải của Kim tứ đồ (Nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp) là những người làm ăn giỏi nhất. Biết sử dụng tiền, thời gian, sức khoẻ và trí tuệ của người khác để làm ra tiền cho họ chứ họ không cần sử dụng công sức của họ. Người bên trái Kim tứ đồ thì họ chỉ biết tiêu tiền, xin việc làm công ăn lương hay tự mình làm việc cho mình. Hiện tại thì mình cũng đang mắc kẹt tại góc thứ nhất, nhưng may mắn là khi mình định chuyển qua góc thứ hai thì bắt đầu gặp trở ngại nên đã không thực hiện được.
Làm công ăn lương thì một ngày mình chỉ bỏ ra có 8 hay 10 tiếng ở công ty còn khi về nhà thì thời gian đó là của mình và có người trả lương cho mình, còn tự làm việc cho mình thì cho dù một ngày có bỏ ra 12 hay 16 tiếng khi về nhà bạn vẫn phải nghĩ về nó. Mình nhận ra cái góc thứ hai đấy nếu ta cứ lao vào như thiêu thân thì mau già, nhanh về với các cụ lắm. Ngoài ra mình còn làm thêm cho các công ty khác, điều đặc biệt là các công ty này dạy mình cách tạo ra hệ thống để tạo ra tiền cả trong khi ngủ. Vậy nên mình mới làm chứ còn làm công ăn lương thì Never và Đừng mong chờ :))
Lý do mà những người Nghèo đi xin việc làm, tự làm việc cho mình là họ muốn AN TOÀN, tiếng anh gọi là Security. Người ta muốn mỗi tháng có 5 triệu, 10 triệu hay 100 triệu chứ họ không muốn giống người Giàu. Người Giàu không muốn có sự an toàn mà họ muốn có sự TỰ DO ( Freedom) bởi vậy suy nghĩ kiếm tiền của họ khác hơn so với người Nghèo. Họ muốn tạo ra hệ thống để tạo ra tiền thụ động cho họ để họ dành thời gian cho gia đình, cho những thứ không mua được bằng tiền vì thứ gì mua được bằng tiền thì hãy còn quá rẻ.
Nếu bạn nào cũng đang làm công ăn lương hay đang tự làm việc cho mình thì nên học thêm cách tạo ra hệ thống để tăng thêm thu nhập thụ động. Các bạn chỉ mất 3 đến 5 năm là có thể tạo ra hệ thống làm tiền cho bạn, nếu may mắn bạn gặp được người tốt giúp đỡ bạn thì thời gian sẽ ngắn hơn rất nhiều.
Chốt lại: Muốn giàu có, tự do thì đừng thích ổn định, phải mạo hiểm lên thôi 😉
Để cho ai đó làm một việc thì chúng ta cần phải cho họ biết rằng việc đó quan trọng như nào và có lợi ích gì với người được hướng dẫn. Trong bán hàng đây gọi là đào tạo nhu cầu cho khách hàng. Hãy giải thích cho họ biết để tự họ phát sinh nhu cầu. Đây là bước một (Giải thích) bước này là quan trọng nhất. Lý do càng lớn thì hành động càng mạnh mẽ và dễ dàng
Quy trình đào tạo 4 bước
Sau khi chúng ta giải thích xong rồi thì chũng ta sẽ làm mẫu cho người đó kiên nhẫn, từ từ lặp lại một cách chắc chắn chắn
Nói và xem thì cũng chỉ đạt được đến mức nhận thức làm mẫu xong rồi để cho người đó làm thử, để người đó áp dụng họ sẽ có được trải nghiệm. Ngay lần đầu làm thử chắc chắn sẽ gặp vấn đề.
Sau khi gặp vấn đề hoặc làm xong mà kết quả chưa đạt chúng ta sẽ rút kinh nhiệm và quay trở lại bước 1, giải thích tại sao lại gặp vấn đề lặp lại quy trình > làm mẫu > Làm thử (sai) > Rút kinh nghiệm…
Chúng ta sẽ lặp lại quy trình 4 bước này cho đến khi người đó đạt được kỹ năng như chúng ta. mong muốn thì thôi
Trên đây là 4 bước để chúng ta đào tạo một ai đó một kỹ năng mà chúng ta mong muốn
Tony Robbins: I Am Not Your Guru – một bộ phim tài liệu về cuộc sống nổi tiếng thế giới của chiến lược gia kinh doanh Tony Robbins, là một bộ phim điện ảnh nói về kinh nghiệm và thành công của anh.
Tony Robbins là tác giả bán sách chạy nhất, nhà doanh nghiệp và nhà hảo tâm số một ở New York Times. Trong hơn 38 năm, Robbins đã trao kinh nghiệm cho hơn 50 triệu người từ 100 quốc gia thông qua các chương trình đào tạo cuộc sống và các sự kiện trực tiếp, như Date With Destiny (Hẹn hò với số mệnh”.
Ông đã tạo ra chương trình phát triển cá nhân chuyên nghiệp số một mọi thời đại, và hơn 4 triệu người đã tham dự các cuộc hội thảo trực tiếp của ông.
Là một nhà chiến lược kinh doanh và kinh nghiệm sống hàng đầu của đất nước, ông đã được các vận động viên, nhà giải trí, các nhà lãnh đạo Fortune 500, và thậm chí là các tổng thống của các quốc gia yêu cầu giúp đỡ.
Vén bức màn về Tony Robbins, một người đàn ông đi khắp thế giới và tư vấn cho hơn 200000 người mỗi năm dù là ai. Bộ phim là một tour du lịch đầy cảm xúc, bày tỏ những gì xảy ra với một người thành công và đem lại cho mọi người cách sống đúng đắn.
Tony Robbins: I Am Not Your Guru
Tony Robbins: I Am Not Your Guru (Bonus)
Tony có một tuổi thơ không êm đềm, lên 7 tuổi bố mẹ ra toà li dị. Mẹ ông 2 lần tái hôn. Thậm chí vào năm 1994, ông còn phát hiện ra u ở tuyến yên. Căn bệnh này là nguyên nhân chính làm cho chân tay của Tony phát triển không bình thường. Nhưng nhờ sự cố gắng, nỗ lực và tập luyện ngày nay ta biết tới Tony Robbins với một diện mạo, một con người hoàn toàn khác. Ông là tác giả chuyên viết sách tự hoàn thiện bản thân (self – help books) và là một diễn giả (motivational speaker) nổi tiếng trên thế giới, ông luôn được tiếp đón với một niềm hân hoan đến cuồng nhiệt và cả sự biết ơn sâu sắc.
Thông tin về diễn giả Tony Robbins:
Athony Tony Robbins là tác giả, diễn giả hàng đầu về các thể loại truyền cảm hứng và phát triển tiềm năng con người. Ông có tài ăn nói khéo léo và cực kỳ lôi cuốn. Tại những buổi nói chuyện chuyên đề của ông, vé luôn được bán sạch. Ông còn là nhà cố vấn riêng cho tổng thống Bill Clinton, các CEO hàng đầu như Mikhali Gorbachev và Andre Agassi.
Phát hiện NLP là bước ngoặt quan trọng đã làm chuyển biến cuộc đời ông. Trước đó, Robbins có một công ty bị phá sản, đánh mất bản thân và cuộc đời thì chạm đáy. Thành công bắt đầu đến với ông sau khi ông giác ngộ NLP và khám phá ra điểm mạnh của bản thân.
Hãy chia tiền theo phương pháp 6 cái lọ để không bị “Khủng hoảng tài chính”
Đừng kêu toáng vấn đề lên với đám đông một nửa đéo quan tâm nửa còn lại cười thầm “chết cụ mày đi”
Đừng kêu toáng vấn đề lên với đám đông một nửa đéo quan tâm nửa còn lại cười thầm “chết cụ mày đi”
_______________________________
P/S: Đừng quên
👉 #Like để ghi lại “Dấu chân tròn trên cát”
👉 #Tag bạn bè vào bởi “Chắc ai đó sẽ cần”
👉 #Share để khỏi bị “Lạc trôi”
👉 #Comment để “Chúng ta đang thuộc về nhau”
Hướng dẫn nhận Thẻ cào Viettel, Vina, Mobi,… hoàn toàn miễn phí trị giá 200k
Điều kiện: Có tài khoản Internet Banking của 1 trong các ngân hàng Vietcombank, BIDV, ACB, TPBank, VPBank, OCB, Eximbank, VIB, thẻ nội địa Sacombank, Shinhan Bank, SCB hoặc Viettinbank (không cần đăng kí Internet Banking đối với Viettinbank)
1. Đầu tiên, các bạn download và cài đặt ứng dụng Ví MoMo từ App Store (đối với iOS) hoặc Play Store (đối với Android) lên chiếc điện thoại của mình.
2. Tiếp theo, khởi động ứng dụng MoMo lên. Ngay lập tức, bạn sẽ nhận được yêu cầu nhập số điện thoại và cài đặt.
Lưu ý: Nếu ứng dụng yêu cầu Liên kết ngân hàng thì bạn hãy bấm hủy. Nhập Mã khuyến mãi trước khi liên kết ngân hàng bạn mới nhận được Khuyến mãi. (Xem bước 4)
3. Sau khi đăng nhập thành công vào ứng dụng MoMo, chọn mục Ưu đãi.
4. Nhập mã khuyến mãi 0974696681 (mã này sẽ giúp bạn có được 200.000 VNĐ ở bước tiếp theo) vào khung rồi bấm vào nút Áp dụng.
5. Chọn tính năng Liên kết tài khoản trên ứng dụng MoMo và thực hiện liên kết Ngân hàng:
Liên kết Vietcombank
Có 2 cách để bạn liên kết tài khoản ngân hàng Vietcombank với ví MoMo:
– Cách 1: Khách hàng mang CMND và điện thoại ra quầy giao dịch VCB để nhờ hỗ trợ
– Cách 2: Khách hàng thực hiện liên kết trực tiếp trên ứng dụng MoMo như hướng dẫn bên dưới
Liên kết VietinBank
Khách hàng thực hiện liên kết trực tiếp trên ứng dụng MoMo như hướng dẫn bên dưới
Liên kết OCB
Khách hàng thực hiện liên kết trực tiếp trên ứng dụng MoMo như hướng dẫn bên dưới
Liên kết VPBank
Khách hàng thực hiện liên kết trực tiếp trên ứng dụng MoMo như hướng dẫn bên dưới
Liên kết Eximbank
Khách hàng thực hiện liên kết trực tiếp trên ứng dụng MoMo như hướng dẫn bên dưới
Liên kết thẻ nội địa Sacombank
Khách hàng thực hiện liên kết trực tiếp trên ví MoMo như hình minh họa bên dưới:
Liên kết TPBank
Khách hàng thực hiện liên kết trực tiếp trên ứng dụng MoMo như hướng dẫn bên dưới
Liên kết ACB
Khách hàng thực hiện liên kết trực tiếp trên ứng dụng MoMo như hướng dẫn bên dưới
Liên kết BIDV
Khách hàng thực hiện liên kết trực tiếp trên ứng dụng MoMo như hướng dẫn bên dưới
Liên kết VIB
Khách hàng thực hiện liên kết trực tiếp trên ứng dụng MoMo như hướng dẫn bên dưới
6. Chọn Nạp tiền vào ví, chỉ cần nạp 10.000 VNĐ vào ví từ Ngân hàng vừa liên kết để xác thực tài khoản (số tiền này vẫn sử dụng bình thường sau đó).
7. Sau khi nạp tiền thành công, bạn sẽ nhận được 3 voucher, tổng trị giá 100.000 VNĐ:
Voucher 1: Trị giá 30.000Đ – Nhận ngay sau khi hoàn thành các bước trên và đúng trình tự.
Voucher 2: Trị giá 30.000Đ – Nhận vào ngày kế tiếp (tức sau ngày nhận voucher 1).
Voucher 3: Trị giá 40.000Đ – Nhận được vào ngày kế tiếp sau ngày nhận voucher 2.
Voucher giảm giá tất cả dịch vụ trên Momo, bạn có thể sử dụng Voucher để mua thẻ cào, sau đó nạp vào tài khoản LinksVIP để nhận VIP hoặc Premium hoàn toàn miễn phí.
Lưu ý: Bạn nên sử dụng hết mệnh giá voucher vì voucher chỉ được sử dụng 1 lần. Trường hợp không sử dụng hết, MoMo sẽ không hoàn phần tiền còn lại.
Thật tuyệt vời phải không nào? Chúc bạn thành công!
Facebook Comments